Bài viết của tác giả ĐInh Như Hoan, Cựu sinh viên Văn K7- Đại học Tổng hợp Huế, hiện là Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, giới thiệu tập thơ "Yêu người quanh ta" của Lê Đức Hoàng
Cùng là người Quảng Trị và cùng lứa
sinh viên K7 (1983–1987) của Đại học Tổng hợp Huế, tôi học khoa Văn còn Hoàng
theo ngành Ngoại ngữ. Ra trường, chúng tôi túa đi khắp nơi tìm việc, rồi lại lục
tục kéo nhau về quê khi tỉnh Quảng Trị
tái lập. Mỗi đứa một nghề, tỉnh mới bộn bề khó khăn nên đứa nào cũng quần quật
làm việc, ít có điều kiện gặp nhau.
Một lần gặp Hoàng đang dẫn nhóm đối
tác nước ngoài đến vùng DMZ vĩ tuyến 17 triển khai dự án hỗ trợ sinh kế người
dân. Các vị khách tỏ ra khá thú vị khi nghe Hoàng giới thiệu về vùng đất này,
tường tận như một chuyên gia. Từ những sự
kiện lịch sử, đến địa chất thổ nhưỡng rồi văn hóa phong tục bản địa… Còn tôi thật
sự bất ngờ bởi khả năng diễn thuyết bằng tiếng Anh của bạn, vì sở trường của
Hoàng hồi đại học là chuyên ngành tiếng Nga.
Bẵng đi nhiều năm, trong giờ giải lao
một cuộc hội thảo lớn ở Hà Nội, có vị chuyên gia quốc tế đã khiến mọi người
kinh ngạc khi kể rằng ở nhiều làng quê phía nam sông Bến Hải, đồ chơi quen thuộc
của bọn trẻ con là những viên đạn súng
trường, súng tiểu liên, thậm chí là bom bi hoặc trái pháo chưa nổ, những thứ rất
dễ tìm thấy ở mỗi bờ ruộng, lùm cây. Ông
kể câu chuyện ấy khi nói về nhu cầu sân chơi cho trẻ em vùng chiến trường xưa ở
Việt Nam và cho biết được nghe từ một người bạn Quảng Trị, tên Hoàng. Chẳng cần
phải hỏi Hoàng nào, tôi biết chắc đó là bạn tôi. Bởi tôi tin chỉ có Hoàng mới kể
được nhiều câu chuyện độc đáo, lạ lùng chỉ có ở những vùng như Quảng Trị mà
thôi. Người ta hay gọi Quảng Trị là chiến trường xưa, nhưng với nhiều người dân
địa phương, chiến tranh vẫn chưa xưa chút nào, hãy còn đeo bám, truy đuổi họ. Bởi
mãi đến những năm 1990 nhiều nơi vẫn còn lổn nhổn bom mìn sót lại. Người đi lấy
củi giẫm phải mìn: nổ! Trẻ em lấy bom bi ném chơi: nổ! Trâu bò gặm cỏ, vướng phải
mìn: nổ! Thậm chí gió Lào nắng nóng quá cũng nổ! Tai nạn bom mìn xảy ra như cơm
bữa và trở thành đề tài nóng tại nhiều diễn đàn trong nước và quốc tế.
Còn Hoàng, sau mấy năm làm hướng dẫn
viên cho DMZ tour, và “người kể chuyện miền đất
lửa” đã trở thành điều phối viên của nhiều dự án liên quan sinh kế cho người
nghèo vùng chiến trường xưa như Chương trình Phát triển Nông thôn Quảng Trị của
Phần Lan (QTRDP), Chương trình Cứu trợ trẻ em (SC) về khắc phục hậu quả bão lụt
và phục hồi sinh kế cho người dân ở một số
tỉnh miền Trung, Dự án Hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc Trung bộ giúp đỡ người nghèo, người cận nghèo … Từ đó đến nay,
hơn ba chục năm lăn lộn cùng các dự án, chương trình dân sinh, Hoàng như thuộc
lòng mọi ngõ ngách quê nhà và cũng tường tận những khó khăn mà người dân quê
đang phải vật lộn. Có lẽ những trải nghiệm ấy tích tụ lâu dần hóa thành máu
trong Hoàng nên mỗi câu chuyện, mỗi diễn giải trước đối tác dự án cũng trở nên
có hồn. Vậy nên ở khía cạnh nào đó, Hoàng là một cây cầu đã nối thành công nhiều
cơ hội cải thiện sinh kế cho bà con vùng chiến trường xưa Quảng Trị.
Cách đây 5 năm, tôi nhận được tập tản
văn “Đa chiều của thời gian” và
Hoàng lại làm tôi bất ngờ. Cũng phải thôi, Hoàng vốn là học sinh chuyên văn trường
Hai Bà Trưng (Huế) của tỉnh Bình Trị Thiên, từng đạt giải toàn quốc năm 1983. “Đa chiều của thời gian” cho thấy Hoàng
rất biết tìm và lọc ra những chi tiết độc đáo, những chiêm nghiệm sâu sắc ở nhiều
nơi, trong nhiều hoàn cảnh, với giọng văn giàu cảm xúc và ẩn nhiều ý tứ. Thí dụ
cách Hoàng nhìn thời gian như một thể sinh thực. Có khi vui bất tận, có khi buồn
miên man. Cũng giận hờn, cũng sầu bi. Cũng chói chang khi cười như ngày nắng và
cũng biết trào nước mắt khi buồn như ngày mưa… Đọc văn của Hoàng, người ta dễ
liên tưởng đến cảm xúc của một người làm thơ.
Và Hoàng làm thơ thật. Cầm tập bản thảo “Yêu người quanh ta ” khi
Hà Nội đang những ngày giãn cách, phố xá vắng hoe khiến tôi cảm giác như được
đón một người bạn thân từ quê ra thăm. Điều khiến tôi tò mò trước hết là Hoàng
tỏ ra dè dặt khi nói về thơ của mình. Trong đời làm báo, tôi chưa thấy có ai gửi
bài đến tòa soạn rồi hết lời… tự chê. Sự
khiêm tốn không chỉ ở trong tin nhắn gửi cho tôi. Hoàng dặn tôi đừng coi đây là
một tập thơ mà chỉ là những câu chiêm nghiệm của một đời người sau hơn 50 năm nổi
chìm cùng bao đắng cay ngọt bùi. Sự khiêm tốn “quyết liệt” đến mức mà ngay
trong tác phẩm, Hoàng cũng sẵn sàng đứng về phe phản biện để thẳng thừng với
thơ của mình:
Đêm
qua tôi lại nằm mơ
Người
ta bàn tán về thơ của mình
Kẻ
thì: “hắn viết linh tinh”
Người
kêu:” thơ hắn như đinh đóng chày”…
(Bình thơ)
Rồi bộc bạch, hài hước kể về chuyện
làm thơ như chơi của mình rằng:
Đôi
khi rất đỗi xui hên
Đôi
khi say tỉnh, xuống lên lạ lùng
Đôi
khi cứ viết lung tung
Rồi
thành thơ để làm chùng lòng em
(Đời thơ)
Có lẽ Hoàng không muốn người đọc để ý quá nhiều vào câu chữ, vần điệu,
thứ mà giới làm thơ xưa nay đều ra sức dụng công, tỉa tót. Bởi cái Hoàng muốn
nói là những cảm xúc của anh trước cuộc sống, cái bình thản của một tâm hồn đã
qua quá nhiều cung bậc. Thế hệ 6X ở vùng đất Quảng Trị như chúng tôi đều trải
qua những năm tháng tuổi thơ dữ dội. Có lẽ đứa nào cũng mang theo mình một vết
sẹo từ thời chiến tranh. Vết sẹo của chia cắt, của mất mát, của loạn ly trong mỗi
cảnh đời. Nó không giống vết thương của người lính, vậy nên nỗi đau cũng không
giống họ. Với Hoàng cũng thế.
“Đã
từng một thuở phai phôi…
Đã
từng có một đời người lấm lem…”
(Đã từng)
Thế hệ chúng tôi, có ai không từng qua một thời “lấm lem” như thế? Nhà
Hoàng nghèo, bom đạn bủa vây nhưng cha mẹ Hoàng đã làm được điều kỳ diệu nhất của
những người làm cha làm mẹ là bế ẵm nguyên vẹn cả chín đứa con về đến ngày hòa
bình. Ký ức về người cha trong cơn binh loạn để thất lạc đứa em, thành người Bắc
kẻ Nam đằng đẵng mấy chục năm trời, hay bóng mẹ liêu xiêu ngõ chợ, tảo tần
khuya sớm đong từng bữa ăn nuôi cả đàn
con vẫn luôn hiển hiện qua từng tháng, từng năm trong tâm trí Hoàng. Bởi vậy,
trong thơ Hoàng nói nhiều và rất nhiều về yêu thương:
Yêu
người từ thuở long đong
Yêu
người từ thuở gánh gồng mẹ cha
(Yêu người)
Hoặc:
Mỗi
một số phận như một cuốn sách mở ra với bao điều mới lạ
Có
những kết thân làm ta ấm lên trong những ngày đông băng giá
Có
những ân tình khiến ta đau đớn khi phải rời xa
Phải
yêu người đang ở quanh ta…
(Yêu người quanh ta)
Đọc thơ Hoàng, ta nhận rõ một con người
đã trải tận cùng những cảm xúc, nhưng lại không “nhìn” được cụ thể cảm xúc như
thế nào, cứ như để mỗi người tự hình dung, mường tượng. Như lúc Hoàng nhắc đến
những ký ức buồn, rất riêng tư, điều mà ở đời không ít người đã gặp, tưởng đã
quên nhưng vẫn thoáng vấn vương:
Mỗi
lần nhìn thấy trầu cau
Là
tôi lại thấy nỗi đau tràn trề
(Đớn đau)
Và trong khi diễn giải cảm xúc, thơ
Hoàng thường nghiêng về sự chiêm nghiệm lẽ đời. Và qua những chiêm nghiệm đó,
người đọc nhận ra một Hoàng rất thiện tính, vị tha:
Chỉ
cần dẹp bỏ lòng tham
Cuộc
đời sẽ bớt gian nan bận lòng
Chỉ
cần nhẹ tựa như bông
Cuộc
đời sẽ bớt cân đong, phân bì
Chỉ
cần dẹp bỏ sân si
An
nhiên sẽ đến, cho đi sẽ nhiều
(Thiện ngộ)
Hoặc:
Dẫu
còn nón lá áo thưa
Dẫu
còn vất vả còn chưa nguôi phiền
Dẫu
còn mưa dột ngoài hiên
Lòng
ta vẫn cứ an nhiên tin đời
(Tự tại)
Hồi còn ở Quảng Trị, có lần tôi đã
khuyên Hoàng một cách nghiêm túc về việc nên chuyển sang nghề báo, nhưng Hoàng
lắc đầu. Giờ thì tôi nhận ra lý do mà ngày đó Hoàng không muốn
xa công việc đang làm. Chẳng phải vì thu nhập, chẳng phải vì địa vị. Cái hấp dẫn
Hoàng chính là cơ hội được về với nhiều làng quê nghèo khó, được gặp những cảnh
đời gian nan… Và có lẽ ở đó Hoàng nhìn thấy mình từ trong kí ức. Nhưng không phải
để bi lụy, khóc than hay oán hận mà là sự chia sẻ và an nhiên. Khi tôi viết những
dòng này, đại dịch Covid 19 đang càn quét qua nhiều tỉnh, thành phố. Hàng vạn
người chết, hàng triệu gia đình điêu linh, hàng nghìn đứa trẻ mồ côi, đói khổ,
tiếng than thấu tận trời xanh… Nhưng hãy nghe Hoàng nhắn nhủ:
Sài
Gòn rồi sẽ lại rộn ràng với những đường phố thênh thang
Sẽ
nhớ cái tĩnh lặng đến mênh mang trong những ngày giãn cách
Nhớ
tình yêu chưa bao giờ dứt mạch
Của
những đoàn xe nặng nghĩa ân tình
Sài
Gòn nhất định sẽ đón ánh bình minh
Sẽ
lung linh, hào sảng và yên bình
(Sài
Gòn ơi cố lên)
Đi qua hơn nửa thế kỷ cuộc đời cùng những bão giông, giờ ở độ “tri thiên
mệnh”, Hoàng nhìn vạn vật bằng con mắt của người đã thấu tỏ nguyên căn. Bởi thế
trong thơ Hoàng, có những câu mộc mạc, chân thành nhưng lại như một lời tuyên
ngôn, ví dụ khi nói về thân phận loài cỏ:
Ung
dung và tự tại
Vô
tư ngắm mặt trời
Mặc
xéo giày tả tơi
Cỏ
vẫn mãi yêu đời
(Phận cỏ)
Tôi nhớ nhà thơ Trần Đăng Khoa có nói về
một “loại thơ” mà những câu thơ không phải viết bằng mắt, bằng tai, bằng các
giác quan tinh vi hay tài nghệ quan sát. Nó là những câu thơ chiêm nghiệm, có
khi phải viết bằng cả cuộc đời. Vậy thì thơ của Lê Đức Hoàng hẳn thuộc loại này
rồi.
Hà Nội, 10/2021